Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2008



Chiếc nơ hình con bướm
Jim Dunn

Hồi ấy tôi học tiểu học tại một thị trấn nhỏ ở miền nam nước Anh. Tôi mới 13 tuổi, là cái tuổi các nhà thơ gọi là trái táo xanh có vị ngọt pha vị chát. Tôi hung hăng, thích choảng nhau, và ương ngạnh, ai bảo cũng không nghe. Dĩ nhiên thành tích học tập của tôi đứng thứ nhất đội sổ trong lớp. Tôi hư hỏng như thế là do từ nhỏ đã mất bố mẹ. Bố tôi làm thuỷ thủ tầu viễn dương, trong một lần tầu gặp bão lớn, sóng biển đã cướp mất tính mạng ông, ngay cả xác cũng không tìm thấy. Sau đó mẹ tôi bỏ mặc hai anh em tôi, một mình đến Liverpool với người tình của bà. Tôi và em gái ở với ông bà nội. Vì không có cha mẹ trông nom nên tôi thường trốn học đi lăng quăng khắp nơi chơi bời nghịch ngợm. Để không bị ai bắt nạt, tôi bắt chước vua võ sĩ quyền Anh Mohamad Ali, sáng nào cũng tập đấm vào bị cát. Tôi tin vào một chân lý không biết đọc được từ cuốn sách nào đã quên béng tên: nếu muốn không sợ người khác thì trước hết phải làm cho người khác sợ mình đã !
Các thầy cô giáo đều đau đầu vì tôi; tất nhiên họ cũng chẳng thừa hơi quan tâm đến chuyện một đứa trẻ mất bố mẹ thì cần tình thương như thế nào. Trong mắt họ, tôi là đồ nhãi ranh ngu xuẩn, sau này lớn lên sẽ trở thành một thằng mất dạy không có triển vọng gì. Tôi trở nên chai lỳ trước sự lạnh nhạt của thầy cô giáo và sự chế giễu của bè bạn. Tôi thừa nhận mình là một thằng hư hỏng không thể nào tu tỉnh được nữa. Nhưng chỉ cần có dịp là tôi trả thù những người đã làm tôi ghét. Chẳng hạn thầy giáo dạy lý béo như con chim cánh cụt ấy có lần bị tôi nấp trong bụi cây lấy cà chua ném cho vỡ cả kính. Một hôm, thằng Harlem con ông chủ tịch phường dám chửi em gái tôi, thế là tôi rút giầy ra choảng nó bươu cả trán.
Học kỳ ấy có một cô giáo mới tên là Yukinnya đến dạy môn nhạc lớp tôi. Cô có vóc người thanh tú, xinh đẹp mê hồn. Có thể nói không thằng con trai nào trong lớp tôi không thầm yêu cô ấy, dĩ nhiên kể cả tôi nữa. Cô Yukinnya thường ngồi trước cây đàn piano vừa đàn vừa hát những bài dân ca Scotland. Tôi nghĩ đó là những điệu nhạc tuyệt vời nhất thế giới. Cô hát như một thiên thần, hay gấp trăm lần các ca sĩ trong dàn đồng ca của nhà thờ. Cô Yukinnya không bao giờ có thái độ phân biệt đối xử với các học trò học kém. Cô không làm như các thầy cô khác, khi lên lớp thường chỉ hỏi các học sinh giỏi mà lờ đi đám học sinh kém. Cô Yukinnya gọi tôi lên hát bài “Ngựa phi trên tuyết”. Nghe tôi hát xong, cô chân thành khen : “Em hát cừ lắm. George, đúng là em có thiên bẩm âm nhạc. Rất có thể sau này em sẽ trở thành một John Lennon đấy !” Tiếng xì xào bàn tán nổi lên, hình như các bạn không bằng lòng với việc cô giáo khen một “thằng mất dạy” như tôi. Cô Yukinnya có vẻ bực mình nói : “Các em hãy đợi xem, sau này nhất định George sẽ gặt hái được những thành tích âm nhạc xuất sắc !”
Từ đó trở đi mỗi lần lên lớp giờ nhạc, bao giờ cô Yukinnya cũng gọi tôi dẫn xướng cho cả lớp hát theo. Các bạn trong lớp mới đầu chưa phục, về sau cũng quen dần. Tôi lĩnh xướng dạy các bạn học một loạt bài hát như bài “Chiếc xe trượt tuyết vui vẻ”, “Đội trưởng du kích”, “Ba nàng công chúa nhỏ xinh”. Dĩ nhiên trước khi lên lớp bao giờ cô cũng gọi tôi đến phòng làm việc, dạy tôi hát theo cô vài lần những bài hát ấy. Dần dần tôi thấy tự tin ở mình, khi làm việc gì tôi không còn hay phá bĩnh như trước. Bạn bè vì thế không còn nhìn tôi bằng con mắt khinh thường nữa. Hôm Lễ Giáng sinh tôi nhận được 5 thiếp chúc mừng, trong đó có 2 thiếp của các bạn gái !
Tôi điên rồ thầm yêu trộm nhớ cô Yukinnya. Dù cô ấy hơn tôi ít nhất 10 tuổi, nhưng tôi vẫn mơ ước có ngày được đón cô về nhà mình bằng một chiếc xe ngựa thuỷ tinh lộng lẫy như kiểu chàng hoàng tử đón nàng công chúa. Tôi bắt đầu đọc những bài thơ tình của Bai-rơn (George Gordon Byron) và Se-li (Percy Bysshe Shelley), nắn nót chép thơ của hai thi sĩ ấy vào một cuốn sổ và định bao giờ chép đủ 100 bài thì sẽ gửi tặng cô giáo Yukinnya.
Thế đấy, một thằng con trai 13 tuổi đã bắt đầu có những xáo động rạo rực của tuổi thanh xuân, trong lòng đầy ắp những suy nghĩ thần bí và hiếu kỳ đối với đàn bà. Tôi thích nhìn trộm bộ ngực đầy đặn của cô Yukinnya. Một lần khi đang nhìn ngắm như vậy, tôi có cử chỉ khác thường gì ấy khiến cô để ý đến và hỏi tôi : “George, em đang nhìn gì thế ?” Tôi đỏ mặt nói lảng đi là tôi nhìn chiếc nơ hình con bươm bướm cô cài trên ngực áo. “À, đấy là con bươm bướm mẹ cô tặng cô đấy, rất đẹp phải không ?” cô mỉm cười hỏi lại. Tôi vội vàng gật đầu lia lịa.
Trong giờ nhạc cuối cùng của học kỳ hai, cô Yukinnya yêu cầu chúng tôi không nhìn sách viết lại trên phổ 5 dòng các nốt nhạc của một bài ca. Lúc gần hết giờ, cô gọi tôi lên ngồi cạnh để ghi điểm bài làm của các bạn trong lớp. Hôm ấy cô Yukinnya mặc một chiếc sơ mi cổ hơi trễ, ngực áo đeo chiếc nơ hình con bươm bướm đúng vào cái chỗ tôi cứ nhìn vào thì lòng rạo rực mê mẩn. Mới đầu tôi còn nghiêm chỉnh làm việc ghi điểm số, nhưng chỉ một lúc sau là tôi thẫn thờ như thằng mất hồn. Cô Yukinnya chống hai tay lên bàn, bộ ngực trắng như tuyết của cô phập phồng hiện lên rõ mồn một ở chỗ cổ áo hở. Tôi bắt đầu trắng trợn liếc mắt nhìn trộm vào chỗ ấy. Càng nhìn tôi càng mê mẩn lú lẫn đến mức quên mất là mình đang ngồi trong lớp học, nhất là ngồi trên bục giảng trước hàng chục cặp mắt của các bạn đang nhìn lên. Rồi chẳng biết thế nào nữa, bàn tay phải của tôi như mất tự chủ rờ rờ lần sang ngực cô Yukinnya. Tiếng xì xầm nổi lên trong lớp học, có bạn huýt sáo ầm ỹ, chỉ có điều cái thằng tôi chó chết vẫn cứ mê mẩn lú lẫn không nghe thấy gì cả.
Như một phản xạ có điều kiện, cô Yukinnya chộp lấy bàn tay tôi khi nó bắt đầu chạm lên ngực cô. Tôi thấy hình như mắt cô ánh lên một chút ngạc nhiên pha tức giận. Tôi tỉnh người ra, rụt tay lại như bị chạm điện, xấu hổ đến mức chỉ muốn chui xuống đất. Nhưng cô Yukinnya đã nhanh chóng nở nụ cười quen thuộc, cô sờ vào cái nơ hình con bướm cài trên ngực áo rồi chụm ngón tay cái với ngón tay trỏ vào nhau giơ lên khoa khoa mấy cái, tươi cười nói với mọi người : “Ồ, con kiến này sao lại dám bò cả lên cái nơ bươm bướm của cô thế nhỉ. George, cám ơn em đã giúp cô tóm được chú kiến. Em thấy chưa, đây này, hãy còn một chú nữa kia !” Thế là tiếng xầm xì tắt hẳn, các bạn trong lớp tưởng là có mấy con kiến ấy thật. Các bạn ấy sao có thể nhìn thấy là trong hai ngón tay cô Yukinnya chẳng có quái gì sất !
Sau giờ học nhạc hôm ấy tôi không còn gặp lại cô giáo Yukinnya nữa. Nghe nói cô lên London dạy ở một trường trung học quý tộc. Hôm cô lên đường đi London, nhiều học sinh ra tiễn cô, riêng tôi xấu hổ không đi. Một điều làm tôi ngạc nhiên và vui mừng là cô Yukinnya có nhờ một bạn gái trong lớp chuyển đến cho tôi gói quà của cô, bên trong là mấy cuốn sách nói về sức khoẻ sinh lý tuổi thanh xuân và một bức thư như sau:
Em George thân mến,
Em là một trong những học trò thông minh nhất của cô. Sau khi được biết về gia cảnh không may của em, cô đã quyết tâm giúp em xây dựng niềm tin phấn đấu vì một cuộc đời tươi đẹp, và em đã không làm cô thất vọng. Cô rất hài lòng về em đấy. Hôm nọ em đã có một cử chỉ rất ngốc nghếch, nhưng không sao; khi người ta còn trẻ dại thì ai cũng đều có thể phạm sai lầm cả. Cô biết em không có ý định xấu, nhưng em nên đọc kỹ mấy cuốn sách cô gửi tặng em.
Lòng tự tôn tự trọng của con người là thứ quý báu vô giá ! Một giáo viên giỏi thì phải biết cách lịch sự bảo vệ lòng tự tôn của các em thiếu niên, chứ không được thô bạo huỷ hoại nó. Bởi lẽ tự tôn tự trọng là động lực mạnh mẽ khiến chúng ta đủ tự tin mỉm cười nhìn cuộc sống.
Cô gửi tặng em chiếc nơ hình con bướm, cô mong rằng em sẽ rất thích nó.
Cô giáo Yukinnya mãi mãi của em.
Tôi mở bọc giấy, thấy ngay chiếc nơ hình con bướm quen thuộc !
Nhiều năm về sau, tôi đã không phụ lòng mong mỏi của cô giáo Yukinnya – tôi trở thành một nhạc sĩ. Bài hát “Chiếc nơ hình con bướm thủa thơ ấu” do tôi sáng tác được xếp số Một trong bảng xếp hạng âm nhạc mấy tuần liền, nhiều bạn trẻ trai có gái có khi nghe bài này đều rơi lệ, vì bài hát ấy kể lại một chuyện có thật. Câu chuyện ấy nói lên một điều: lòng tự trọng của tuổi thanh xuân mãi mãi là vô giá !



Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2008





Con sáo biết nói
Con chim sáo đá anh mua mãi tận trong Bích động Ninh Bình. Con chim non mép vàng lởm chởm lông măng rất phàm ăn và dạn dĩ. Nó kết thân với bọn trẻ trong xóm cùng lứa con anh, cũng líu lô chành choẹ đủ điều. Bẵng đi vài năm, nó như một thành viên của gia đình hoà nhập vào lối sống công chức hiền lành, giờ giấc, cam chịu.
Một chiều về đến nhà thằng con lớn khoe với anh : "Bố ơi ! con sáo biết nói rồi !". "Nó nói gì ?". "Nó rao bánh mì, cả xóm chạy ra mua". Từ hôm ấy anh mới để ý đến giọng hót của nó, không còn là những âm thanh hào sảng của núi rừng sông suối nữa, không còn cả những thảng thốt gọi bầy lúc chiều nhập nhoạng, không còn cả những ríu rít sớm mai theo đàn trâu kiếm mồi bên chân núi. Nó cũng không đáp lại tiếng gọi của đàn sáo hoang về tìm thức ăn trên cây gạo tháng ba đỏ rực bờ đê. Nó bắt chước tiếng chị. Nó cằn nhằn về chuyện anh không chịu thay quần áo, nó kêu ầm lên "Bít tất kinh quá !". Vâng ! Rất kinh, anh biết nhưng chưa bao giờ dám kêu như thế. Nó giục cả nhà "Tắt đèn, ngủ đi !" rồi rên hừ hừ như ông lão hàng xóm mắc bệnh suyễn. Chị và các con khen con sáo khôn ngoan sành sỏi cứ như thể là một tấm gương đạo đức, biết nhắc nhở nhiều điều anh quên. Anh ngán ngẩm như người trót đa mang.
Tối nay tôi đến thăm anh, chị thầm thì như hối lỗi : "Sáng dậy anh mở lồng cho con sáo bay đi rồi anh cũng đi từ sáng không về". Vừa ngồi chưa ấm chỗ anh đã trở về huyên náo, con sáo theo chân anh bay về nhà chui tọt vào chiếc lồng tre rệu rạo. "Tớ vừa sang nhà cậu !", con sáo cãi "Giả vờ, giả vờ".
Anh đã không gặp tôi, con sáo nói đúng. Tôi không mấy khi ở nhà vì một nhẽ rất giản đơn, nhà tôi cũng có một con sáo biết nói.










Lên thiên đường hay xuống địa ngục đều đồng ý

Chiếc xe tải mất lái đâm vào một người mù đang được con chó dẫn đường. Người mù chết ngay. Con chó xông vào cứu chủ nên cũng bị chẹt chết. Linh hồn hai kẻ bị nạn bay lên trời, tới lối vào cổng thiên đường.
Thiên thần gác cổng chặn lại: “Xin lỗi, bây giờ danh sách lên thiên đường chỉ còn lại một suất. Một trong hai ngươi phải xuống địa ngục.”
Người chủ chó hỏi: “Con chó của tôi chưa hề biết thiên đường là gì, địa ngục là gì. Có thể để cho tôi quyết định ai được lên thiên đường hay không ạ ?”
Thiên thần nhìn người mù với ánh mắt khinh bỉ, chau mày nói: “Rất tiếc ! Đã là linh hồn thì đều bình đẳng với nhau. Các ngươi phải qua một cuộc thi để chọn ra kẻ được lên thiên đường.”
Người mù thất vọng hỏi: “Thi thế nào ạ ?”
“Rất đơn giản, thi chạy. Từ đây chạy tới cổng thiên đường, ai tới trước thì được lên thiên đường. Nhưng ngươi cũng đừng lo, vì ngươi đã chết rồi nên không còn là kẻ mù nữa, và tốc độ chạy của linh hồn thì không liên quan gì tới thể xác; linh hồn nào càng trong sạch lương thiện thì chạy càng nhanh.” Người mù nghĩ ngợi giây lát rồi đồng ý.
Khi tuyên bố cuộc chạy đua bắt đầu, thiên thần cứ tưởng người mù sẽ khôn ngoan ráng sức chạy thật nhanh, ai ngờ người đó vẫn đi thong thả chậm rãi. Kỳ lạ hơn là con chó dẫn đường kia cũng không chạy mà chỉ đi cùng với chủ của nó, không hề rời một bước. Bấy giờ thiên thần mới hiểu ra: bao năm nay con chó ấy đã tập được thói quen mãi mãi làm theo chủ nó, luôn luôn đi đằng trước để dẫn đường cho chủ, người chủ bảo gì thì nó nghe theo ngay. Rõ ràng, nếu là kẻ có tâm địa độc ác thì khi tới cổng thiên đường người chủ sẽ bảo con chó đứng lại để người đó dễ dàng thắng cuộc thi chạy này.
Thiên thần thương hại nhìn con chó và lớn tiếng bảo nó: “Mày đã vì cứu chủ mà hiến dâng tính mạng của mình, bây giờ chủ mày đã hết mù rồi, mày chẳng cần dẫn đường cho ông ta nữa, mày chạy nhanh lên nào !” Thế nhưng người chủ cũng như con chó, cả hai dường như chẳng nghe thấy thiên thần nói gì cả, vẫn cứ thong thả như đi dạo.
Khi tới cách cổng thiên đường vài bước chân, người chủ ra lệnh cho con chó dừng lại. Nó bèn ngoan ngoãn ngồi xuống. Thiên thần nhìn người chủ với ánh mắt khinh bỉ.
Người chủ nhoẻn miệng cười quay lại bảo thiên thần: “Tôi sắp sửa tiễn con chó của mình lên thiên đường. Bây giờ điều tôi lo nhất là nó thật sự không muốn lên đấy mà chỉ thích ở bên tôi ……Chính vì thế mà tôi muốn quyết định thay cho nó.”
Thiên thần ngạc nhiên đứng sững lại.
Người chủ nhìn con chó với ánh mắt lưu luyến, lại nói: “Thật tốt là ta có thể dùng cách chạy thi để quyết định thắng thua. Ít nhất tôi cũng có thể bảo con chó kia bước thêm vài bước nữa, như vậy nó có thể lên thiên đường được rồi. Có điều con chó này đi cùng tôi đã bao năm nay mà bây giờ lần đầu tiên tôi mới hết mù và được nhìn thấy nó bằng chính mắt của mình. Bởi vậy tôi muốn đi thong thả một chút để được nhìn nó lâu hơn. Nếu được phép thì có lẽ tôi thật sự muốn mãi mãi được nhìn thấy nó. Nhưng bây giờ đã tới cổng thiên đường rồi. Đây mới là nơi nó cần được đến. Xin thiên thần làm ơn chăm nom nó giúp tôi !”
Nói dứt lời, người chủ ra lệnh cho con chó tiến lên phía trước. Khi con chó tới cổng thiên đường thì người chủ rơi xuống địa ngục như một chiếc lá rụng. Con chó quay đầu nhìn thấy chủ nó rơi xuống bèn chạy thục mạng đuổi theo chủ.
Lúc bấy giờ, vị thiên thần lòng đầy hối hận vội giương cánh bay theo định túm lấy con chó dẫn đường. Nhưng vì con chó ấy vốn có linh hồn trong sạch nhất, lương thiện nhất, cho nên nó chạy nhanh hơn bất cứ thiên thần nào. Và thế là rốt cuộc con chó dẫn đường ấy lại trở về bên người chủ của nó. Dù là ở dưới địa ngục, nó cũng sẽ mãi mãi bảo vệ chủ của mình.
Thiên thần đứng rất lâu nhìn theo hai linh hồn đáng thương kia và lẩm bẩm: “Ngay từ đầu ta đã phạm sai lầm. Hai linh hồn ấy là một thể thống nhất không thể tách rời nhau. Được cùng ở bên nhau thì dù là thiên đường hay địa ngục chúng cũng bằng lòng.” ■
Truyện ngắn của Phi Điểu Hòa Ngư